Việc chúng ta kỷ niệm ngày Giỗ Tổ, coi đó là Quốc lễ từ năm 2007 là hợp lý. Như vậy, chúng ta đã củng cố thêm về ý thức cội nguồn, và đấy là sứ mệnh tồn tại thực sự của một dân tộc”. GS -TS Ngô Đức Thịnh khẳng định như vậy trong cuộc trao đổi với phóng viên NTNN/Dân Việt.
>>
Các loại hoành phi câu đối ở đền Hùng
Đừng
lợi dụng thần thánh!
Là
người nghiên cứu văn hóa dân gian lâu năm, GS đánh giá gì về giá trị truyền
thống của ngày Giỗ Tổ Hùng Vương, nhất là với giai đoạn hiện nay?
–
Giá trị truyền thống lớn nhất của ngày Giỗ Tổ Hùng Vương là giúp chúng ta biết
được cội nguồn của mình. Có cùng một cội nguồn, đó là một thứ minh triết lớn
nhất, nhờ vậy tất cả con dân Việt Nam mới đoàn kết nhau lại để đấu tranh và phát
triển. Tư tưởng cội nguồn là tư tưởng cốt lõi, tư tưởng này vừa mang tính lịch
sử, vừa mang tính văn hóa. Dân tộc Việt Nam đã phát huy được tư tưởng cội nguồn,
tư tưởng đầu tiên và gốc rễ của dân tộc.
Cùng
cội nguồn thì cùng sống, cùng đấu tranh, cùng khai thác để vượt qua những khó
khăn của tự nhiên, và cùng xây dựng một xã hội hài hòa. Việc chúng ta kỷ niệm
ngày Giỗ Tổ, coi đó là Quốc lễ từ năm 2007 là hợp lý. Như vậy, chúng ta đã củng
cố thêm về ý thức cội nguồn, và đấy là sứ mệnh tồn tại thực sự của một dân tộc.
Cùng với thế giới, chúng ta tôn vinh sự kiện này là một chủ trương tốt. Duy chỉ
có một điều sai là từ lâu rồi, chúng ta mắc căn bệnh “nhà nước hóa” trong Giỗ
Tổ.
Cần
đánh giá đúng vai trò Nhà nước và nhân dân trong vấn đề này. Ngày Giỗ Tổ tất
nhiên cũng có vai trò tham gia của Nhà nước, nhưng cũng không thể thiếu vai trò
của nhân dân. Vì câu chuyện “nhà nước hóa” lễ Giỗ Tổ mà chúng ta gặp khó khăn
trong quá trình UNESCO xem xét công nhận “Tín ngưỡng thờ cúng Vua Hùng” là di
sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Thời
nhà Nguyễn, người ta đã ghi rất rõ: “5 năm 1 lần có hội chính, triều đình nhà
Nguyễn cử đại diện ra lễ Giỗ Tổ. Còn những năm lẻ triều đình Nguyễn gửi 4 đấu
gạo nếp thơm ra cho những người giữ chân nhang nấu xôi cúng Tổ”. Tuy vậy, cần
nói rõ thêm là bây giờ việc “nhà nước hóa” lễ Giỗ Tổ đang được khắc phục
dần.
Dịp
Giỗ Tổ, có nhiều tổ chức, cá nhân hướng về tổ tiên với nhiều cách, trong đó
không ít đơn vị, tổ chức muốn làm những thứ “kỷ lục” để dâng cúng. Ông nghĩ
những thứ kỷ lục đó có phù hợp với Giỗ Tổ?
–
Hiện tượng này có thể khẳng định không phải vì Vua Hùng hay vì tổ tiên gì cả.
Chỉ là quảng cáo mà thôi! Cái này là không phù hợp, không thể ủng hộ được. Anh
làm đủ thứ “lớn nhất” để dâng lên các Vua Hùng thì nó không thể hiện sự thành
kính. Xã hội phát triển, người ta có nhiều cách để thể hiện mong muốn của mình,
nhưng đừng lợi dụng thần thánh. Quảng cáo thì cũng được, nhưng làm sao phải thể
hiện lòng thành kính với các cụ. Đâu cứ phải làm to mới là thành kính. Quốc Tổ
đâu cần phải đồ cúng nhiều. Điều quan trọng nhất trong văn hóa nghi lễ là lòng
thành. “Lòng thành thắp một nén nhang”, dân gian đã nói rồi.
Người
ta lấy chuyện vật phẩm, lấy chuyện nhiều ít, chuyện tiền bạc để so sánh. Cần nhớ
là trong những câu chuyện dân gian luôn có yếu tố Tiên. Tiên là đại diện cho cái
thiện. Cứ nghe thấy những người dân ở tận cùng đau khổ, hướng về Tiên thì Tiên
xuất hiện. Lòng thành lúc này mới quan trọng. Nếu anh có lòng thành thì sẽ thấu
đến tổ tiên, thần linh. Một nén nhang thôi, rất đơn giản, ai cũng có thể có
nhưng khi anh có lòng thành thì khói hương sẽ chuyên chở tấm lòng của anh, sự
nguyện cầu của anh đến tổ tiên, thần linh. Tôi vẫn tự hỏi không biết đời sống
nghi lễ, phong tục lễ hội của chúng ta bao giờ mới trở về triết lý đơn giản
“lòng thành thắp một nén nhang”?
Xem
thêm: Nhà đúc chuông đồng cho đền hùng
Hội
nhập để tạo ra sức mạnh
GS
có một câu nổi tiếng: “Văn hóa là của dân. Người dân sáng tạo ra văn hóa ấy.
Muốn tìm nó thì phải về với dân”. Điều này cho thấy vai trò quan trọng của dân
gian đối với sự tồn tại và phát triển của văn hóa. Nhưng giờ đây, đang có những
cuộc “xâm lăng về văn hóa” từ điện ảnh, thời trang, lối sống của nước ngoài đối
với giới trẻ. Ông có lo sợ những cuộc “xâm lăng mềm” kiểu này và liệu vì thế lớp
trẻ sẽ quay lưng với văn hóa truyền thống?
–
Tôi có lo và không lo, bởi việc giao lưu về văn hóa trong thế giới phẳng như
hiện nay là lẽ tất nhiên. Trước thì ta giao lưu với Trung Quốc, giờ là Hàn Quốc
và nhiều nước khác, nhưng những giao lưu đó phải mang giá trị tốt đẹp, hướng đến
cái tốt đẹp. Ví dụ như chùa Bái Đính (Ninh Bình) là một sự phô trương, một sự
học đòi. Những ngôi chùa như Bút Tháp, Phật Tích rất bình dị nhưng vào đó người
ta thấy được cả một sự yên tâm, an lành. Chỉ đơn giản thế thôi, cần gì phô
trương.
Chúng
ta làm những thứ to nhất, lớn nhất thế giới để làm gì? Những người làm như thế
tưởng là phúc đức nhưng thực sự lại không phải vậy!
Đối
với dân tộc Việt Nam, tôi không tin lớp trẻ ngày nay sẽ quay lưng lại với văn
hóa truyền thống dân tộc khi bị ảnh hưởng bởi văn hóa của các nước khác. Có thể
có cá nhân này, cá nhân kia nhưng cả một dân tộc thì không thể. Bởi chúng ta có
kinh nghiệm trong hội nhập quốc tế rất sớm. Từ xưa chúng ta đã hội nhập với
Trung Hoa và chính vì sự hội nhập đó mà chúng ta có một sức mạnh để vượt qua sự
thống trị của Trung Hoa.
Chúng
ta có gần 100 năm hội nhập với Pháp, nhưng lần hội nhập này chúng ta bị thống
trị, mất độc lập. Nhưng dân tộc chúng ta vẫn vượt qua được. Nếu biết mình yếu
thì phải hội nhập để tạo ra sức mạnh. Trong trường hợp nhất định, có thể có
người này người kia chạy theo văn hóa nước ngoài, không thấy được giá trị của
văn hóa dân tộc, không biết lợi dụng sức mạnh của quốc tế để tự cường. Nhưng xét
về toàn bộ dân tộc thì tôi tin là không có.
Vừa
qua chúng ta lo lắng khi hội nhập sâu với quốc tế, nhưng thực ra chúng ta đã có
kinh nghiệm hội nhập từ rất lâu, chỉ là tầm cỡ nhỏ hơn mà thôi. Nhưng đấy cũng
là những đại diện của nền văn hóa, văn minh nhân loại. Cần phải nhắc lại, còn
văn hóa là còn tất cả, mất văn hóa là mất hết.
Ông
cũng đã lo lắng khi xã hội đang theo hướng thực dụng, nhất là với những người
lắm tiền nhiều của. Nhiều nét văn hóa truyền thống bị biến dạng, con người lợi
dụng, buôn thần bán thánh. Lo lắng của ông tới thời điểm này đã bớt đi hay nhiều
hơn?
–
Lo lắng của tôi vẫn là hiện tượng đơn lẻ, cá nhân. Tâm linh của người Việt là
phải có âm phù dương trợ, cả âm cả dương hỗ trợ thì mọi việc mới suôn sẻ. Nếu
một vị lãnh đạo rất to nào đó đi cúng lễ thì đó cũng là quyền của họ. Quyền tín
ngưỡng là quyền của tất cả mọi người. Động cơ cái đó là gì thì ta không bàn,
nhưng không ai cấm quyền tín ngưỡng của mỗi cá nhân cả. Một minh chứng rõ ràng
là trước đây nguyên Tổng thống Mỹ George W. Bush sang thăm Việt Nam và cũng đi
lễ tại nhà thờ Cửa Bắc… Khi ở Washington, ông ấy cùng với vợ vẫn thường xuyên đi
nhà thờ, đây là việc tôn giáo tín ngưỡng của riêng ông ấy. Người ta phân biệt
rất rõ ràng thế cơ mà.
Xin
cảm ơn GS!
Gợi
ý xem thêm: Các mẫu tranh đồng
quà tặng nhân ngày
giỗ tổ